Một số tìm hiểu về Hội chứng hậu COVID-19.
Theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) công bố định nghĩa chính thức đầu tiên về hội chứng hậu COVID-19(post COVID-19 condition) vào đầu tháng 10/2021. Theo đó, tình trạng hậu COVID-19 xảy ra ở những người có tiền sử nhiễm SARS-CoV-2, thường là 3 tháng kể từ khi bắt đầu mắc COVID-19 với các triệu chứng và kéo dài ít nhất 2 tháng mà không thể giải thích bằng chẩn đoán thay thế. Tình trạng này có thể khiến sức khỏe người bệnh bị suy giảm kéo dài, có tác động nghiêm trọng đến khả năng quay trở lại làm việc hoặc tham gia cuộc sống xã hội. Hậu COVID-19 ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần thể chất và có thể gây ra những hậu quả kinh tế đáng kể cho bản thân, gia đình và cho xã hội. WHO ước tính có 10 - 20% bệnh nhân COVID-19 trải qua các triệu chứng kéo dài trong nhiều tháng sau khi mắc bệnh. Theo một số nghiên cứu cũng cho thấy, có tới 33% -76% người bệnh có thể gặp triệu chứng hậu COVID-19 kéo dài ít nhất 6 tháng sau khi nhiễm bệnh, 20% người bệnh phải tái nhập viện; 80% người bệnh phải theo dõi tại cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu trong vòng 2 tháng sau xuất viện. Cơ chế gây bệnh chủ yếu do sự xâm nhập trực tiếp của virus vào tế bào cơ thể người thông qua thụ thể ACE2; phản ứng viêm và phản ứng miễn dịch quá mức của cơ thể; những yếu tố tâm lý xã hội tiêu cực từ đại dịch
Theo các bác sĩ, hội chứng hậu COVID-19 có thể xuất hiện ngay sau khi điều trị khỏi nhưng cũng có nhiều trường hợp sau 4 tuần kể từ lúc khỏi bệnh mới xuất hiện. Những rối loạn này có thể kéo dài trong 4 tuần, thậm chí đến vài tháng. Biểu hiện thông thường về các triệu chứng chung (như: Mệt mỏi, sốt nhẹ, đau cơ, đau khớp, bệnh thần kinh ngoại biên, thiếu máu ở đầu chi,...); về thần kinh (như: mất vị giác, khứu giác kéo dài, đau đầu, lú lẫn, bệnh não và đột quỵ, ...); về tâm thần (như: trầm cảm, stress, lo lắng, sống cô lập,...); về phổi (như: khó thở và ho kéo dài, đau ngực, tổn thương kẽ, xơ phổi,...); về Tim mạch (như: đánh trống ngực, nhịp nhanh, viêm cơ tim, viêm màng ngoài tim, suy tim, xuất huyết, huyết khối,...); về Da (như: nổi mẩn đỏ, mề đay, rụng tóc, ngón chân Covid kéo dài,...); rối loạn tiêu hóa (như:ăn không ngon miệng, chán ăn, đau dạ dày, tiêu chảy…); rối loạn nội tiết,…Tùy theo mức độ bệnh mà có thể xuất hiện ít hoặc nhiều triệu chứng, biểu hiện từ nhẹ, thoáng qua hay các di chứng nặng; nhìn chung có thể thấy xuất hiện khoảng trên dưới 200 triệu chứng đặc biệt là ở những bệnh nhân covid đã trải qua điều trị hồi sức tích cực. Ở một số bệnh nhân Covid-19 nhẹ và trung bình trong giai đoạn hậu COVID-19 có thể gặp nổi trội các triệu chứng về tâm thần kinh như giảm sự tập trung, bồn trồn, mau quên, không tập trung, rối loạn tâm lý stress, lo âu, trầm cảm, rối loạn giấc ngủ. Thường xuất hiện tình trạng não sương mù, nhận thức kém, đọc chậm, giảm trí nhớ ngắn hạn, thay đổi tâm trạng. Ở người có sẵn bệnh nền như bệnh tim mạch, tiểu đường, đặc biệt là hô hấp, viêm phổi tắc nghẽn mạn tính COPD, viêm phế quản mạn… khi COVID-19 xảy ra trên nền bệnh đó có thể khiến tổn thương vốn có của họ trở nên nặng hơn.Còn ở một số người mắc COVID-19 nghiêm trọng sau khỏi bệnh có thể gặp phải các ảnh hưởng xấu tới đa cơ quan hoặc bệnh tự miễn dịch trong một thời gian dài kèm theo các triệu chứng trong nhiều tuần hoặc nhiều tháng. Không chỉ biểu hiện bằng các triệu chứng lâm sàng kể trên, người bệnh còn có thể xuất hiện những bất thường cận lâm sàng như tăng men tim kéo dài, rối loạn đường huyết, rối loạn hormon giáp, giảm độ lọc cầu thận; rối loạn chức năng hô hấp (giảm độ khuếch tán phổi, hạn chế dung tích phổi; bất thường hình ảnh học, xơ phổi, giãn phế quản trên CT scan ngực) rối loạn chức năng tâm thất qua siêu âm tim...
Để dự phòng, hạn chế tối thiểu những triệu chứng hậu covid-19, trước nhất người mắc Covid-19 cần có niềm tin và tuân thủ hướng dẫn chẩn đoán, điều trị của thầy thuốc, của Bộ Y tế; cần có ý chí cầu sinh lớn, coi đó như là kháng thể nội sinh tăng cường, củng cố quyết tâm khỏi bệnh và không rơi vào các rối loạn tâm lý (như stress, trầm cảm, rối loạn lo âu, mất ngủ,…). Bên cạnh đó, cần dùng nghị lực để vận động cơ thể tối đa nhất khi mắc bệnh, bởi càng vận động, cơ thể càng sản sinh ra nhiều động năng cũng như kích hoạt kháng thể bản thân để đối chọi với nguy cơ xâm lược của COVID-19. “Càng nằm, chúng ta sẽ càng mệt và càng chìm ý thức vào những lo lắng không định hình…”, đặc biệt vận động giúp cho phổi hoạt động tốt không bị ứ đọng dịch, khí thở cũng được lưu thông tốt hơn. Ngay cả khi người bệnh đã khỏi bệnh, nhưng vẫn cần thiết phải tiếp tục theo dõi và nâng cao sức khỏe toàn diện phục hồi chức năng, vật lý trị liệu, dinh dưỡng và chăm sóc tinh thần, giấc ngủ.Một số khuyến cáo nên thực hiện như:
- Tập thở: Thở 4 thì. Hít vào, thở ra chậm, hít sâu dần dần và thở ra nhẹ nhàng không vội vã và nhịp độ tăng lên từng ngày.
- Tập thể dục: Hàng ngày vận động nhẹ nhàng như đi bộ chậm, tập thể dục nhẹ, đạp xe đạp rất chậm, tập dưỡng sinh. Tập theo các bài tập Bộ Y tế khuyến cáo, theo chương trình thể dục trên đài truyền hình mỗi sáng lúc 5 giờ, nếu tự tập phải đảm bảo 30 phút hàng ngày.
- Đi bộ: Một nghiên cứu (2011) cho thấy người trưởng thành khỏe mạnh có thể đi bộ khoảng từ 4.000 đến 18.000 bước/ngày tùy theo yêu cầu. Tuy nhiên mục tiêu 10.000 bước/ngày là khá phù hợp cho người trưởng thành khỏe mạnh.
- Dinh dưỡng đúng: Nên chia bữa ăn thành 3-5 bữa mỗi ngày tùy theo sức ăn của người bệnh và kết hợp đa dạng thực phẩm trong khẩu phần ăn, nên ăn nhiều rau, trái cây, uống đủ nước, uống thêm nước ép trái cây, uống sữa, ăn chuối chín để bổ sung Kali. Bổ sung các loại vi chất do tác hại của bệnh COVID-19 nên ăn các loại thực phẩm có nhiều vi chất như cá, tôm, cua, hào, nghêu sò,…
- Chăm sóc sức khỏe tinh thần: Ngủ đủ giấc, nghe nhạc, thư giãn và trao đổi thông tin với mọi người xung quanh để cuộc sống trở lại bình thường.
chung, để phát hiện sớm tình trạng mắc di chứng hậu COVID-19, bệnh nhân sau khi xuất viện cần quay lại cơ sở y tế để tái khám trong khoảng thời gian từ 2-4 tuần nhất là người bệnh nặng, nằm viện lâu ngày. Đối với khi xuất hiện các triệu chứng hậu covid-19 trên, thì tùy theo triệu chứng, cần đến các bệnh viện chuyên khoa để được khám, tư vấn, hướng dẫn và điều trị kịp thời nhất là các rối loạn chức năng hô hấp, rối loạn nhịp tim và khi có các biểu hiện rối loạn tâm thần kinh./.
Tài liệu tham khảo: Website BYT, CDC TP HCM, BVPSN BD.